"Tôi biết Việt Nam vẫn là một quốc gia còn nghèo. Nhưng mà với tôi cái nghèo đó nó đến bởi vì nhiều lý do. Cái lý do đầu tiên đó là người dân họ không được quyền lên tiếng nói. Bây giờ thì người dân họ được quyền nói, nhưng mà họ nói thì cũng cóc ai nghe. Một Việt Nam đáng sống là Việt Nam mà người dân có quyền đóng góp ý kiến, và ý kiến của người dân phải được tôn trọng. Khi tôi tham gia vào chương trình xây dựng xã hội dân sự thì đó cũng là mục tiêu. Tôi bảo rằng là bây giờ mình đã có mình có 100 triệu người Việt Nam. Mình có một cái chính phủ Việt Nam. Và rõ ràng bây giờ chính phủ Việt Nam có một chục người, mà họ cai quản cả 100 triệu người thì cái đó là cái sai. Một Việt Nam đáng sống là khi nào mà những người Việt Nam biết được vai trò của họ, biết được trách nhiệm, và họ được lên tiếng trình bày những ưu tư của họ với lại chính quyền. Việt Nam đáng sống là nơi mà chính quyền sau khi nghe được ưu tư của người dân, chính quyền thấy là họ có bổn phận phải làm như là người dân chúng ta. Thì tôi thấy đó là một Việt Nam đáng sống. Và tôi tin một điều như thế này: Chính quyền Việt Nam hay bảo rằng chủ nghĩa tư bản hay dân chủ nó không phải là tuyệt hảo. Tôi đồng ý 100%. Nhưng nếu bảo rằng dân chủ và tư bản nó kém cái định chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gì đó thì tôi không tin. Tôi không tin cái điều đó. Tôi nghĩ rằng là nếu cho người Việt Nam một cơ hội thì chắc chắn là người Việt Nam họ hay hơn nhiều. Họ có thể làm hay hơn nhiều, và họ có thể giúp cho đất nước nhiều hơn. Tôi mong là đến một ngày nào đó người dân trình bày ưu tư, đó là cái trách nhiệm, và chính phủ có bổn phận phải làm được những gì mà người dân trông chờ, thì đó là một Việt Nam đáng sống."
"Lúc đầu, công việc chúng tôi làm nó khó lắm. Tức là công việc bên Á châu Tự do đó nó khó lắm, bởi vì liên lạc với Việt Nam đã khó, mà tin tức nhiều khi có người cho mình biết nhưng chưa hẳn đã xác thực. Nhưng mà cứ từ từ rồi may mắn. May mắn hơn nữa là tụi tôi quyết định cử người đi châu Á, sâu vào Đông Nam Á. Tụi tôi có văn phòng ở Campuchia, có văn phòng ở Thái Lan, v.v. Và tụi tôi bắt đầu móc nối. Ban của tôi móc nối trước hết là với những nhà tranh đấu của Việt Nam. Vào cái thời đó chẳng hạn như là ông Trần Độ. Thì qua đó chúng tôi cũng biết được một phần tin tức, rồi sau này thì nó lan rộng hơn. Rồi có những những nhà tranh đấu, những người khác, chẳng hạn như là ông mục sư này, thượng tọa kia v.v. Hầu hết họ đều muốn lên tiếng với Đài Á châu Tự do, bởi vì họ biết rằng là đó là nơi mà họ có thể lên tiếng. Họ cũng muốn cung cấp tin tức cho Đài Á châu Tự do bởi vì họ biết đó là nơi cần tin tức. Họ hiểu được vai trò của đài VOA khác hẳn cái vai trò của đài RFA. Vâng, bởi vì đài VOA là tiếng nói chính thức của chính phủ Hoa Kỳ, còn đài RFA thì không phải. Thành ra chúng tôi có không gian rộng rãi hơn. Sau này thì chuyện đi tìm tin tức Việt Nam nó dễ hơn. Bây giờ thì nó quá dễ, rất dễ rồi. Nhưng mà lúc đầu chúng tôi làm, tức là hai mươi mấy ba mươi năm trước đây thì nó hoàn toàn khác, nó khó lắm. Nhưng mà cuối cùng thì điều đáng mừng là ở Việt Nam họ nghe đến Đài Á châu Tự do, và họ biết rằng đài này là chỗ mà mình có thể chia sẻ tin tức được. Đó là cái điểm đáng mừng. Tôi cũng phải nhân tiện đây nói luôn một điều là có những người nghe Đài Á châu Tự do mà bị bắt. Có những người trả lời phỏng vấn của Đài Á châu Tự do mà bị bắt. Có những người liên lạc với Đài Á châu Tự do rồi bị bắt. Một khi tôi nghĩ đến thì tôi cũng đau xót, và dùng chữ ân hận thì cũng không sai."
"Năm 1972 được gọi là mùa hè đỏ lửa, là bởi vì lúc đó đánh khắp mọi nơi. Đánh khắp mọi nơi. Năm 1968 ở Sài Gòn tôi nhìn thấy không khí chiến tranh lần đầu. Nhưng mà sau này tôi đi ra thăm bố tôi ở Quảng Trị. Bố tôi đóng quân ở Huế. Lúc đó Cổ Thành Quảng Trị, tức là bên miền Bắc chiếm, rồi bên này, bên miền Nam phản công rồi chiếm lại, v.v. Tôi nhìn thấy những hình ảnh mà tôi có thể nói rằng là đến bây giờ vẫn còn ám ảnh của tôi. Hình ảnh của những người dân chạy từ Quảng Trị về Huế. Và cái điều mà tôi thấy không có ai nói lên được cả. Nhân ở đây thì cho phép để tôi trình bày, bởi vì tôi chứng kiến tận mắt. Người dân chạy từ con đường Quốc lộ số 1, cứ chạy như vậy từ Quảng Trị chạy về Huế. Họ đi bộ, họ chạy bộ, có những người còn gánh hai cái đòn gánh mà một bên là đứa con, ở bên kia là quần áo, chẳng hạn là như vậy. Và hãy thử tưởng tượng là quân đội miền Bắc họ bắn pháo kích theo. Số người chết ở trên cái quảng đường đó thì tôi không bao giờ tôi quên được. Đến sau này thì mấy ông nhà báo đàn anh của tôi đặt tên cái quảng đường đó là Đại lộ kinh hoàng, là vì đó là nơi mà người ta bỏ chạy. Là nạn nhân chiến tranh bắt buộc họ phải bỏ chạy để tìm nơi ẩn náu và tìm nơi an toàn. Và họ bị pháo kích ở đằng sau bắn tới. Người chết hàng loạt. Thì đó có lẽ là cái lúc mà tôi thấy là cái chết nó kinh hoàng. Không ai có thể ngờ được. Sau này thì đoạn đường đó, tức là đoạn đường từ Cổ thành Quảng Trị đến Huế, trước năm 1975 chúng tôi gọi đó là Đại lộ kinh hoàng."
"Như lúc nãy tôi thừa là ông tổng thư ký ông bảo tổng thư ký của tờ báo tức là ông editor-in-chief đó, mà tiếng bây giờ gọi là tổng biên tập phải không nào? Ông bảo tôi là học như vậy thì phải qua viết. Giáo dục, y tế, xã hội—đó là một cái mảng chung với nhau. Khi tôi qua thì lúc đó là lần đầu tiên mà tôi được đi dự những cuộc họp báo. Rồi nhiều khi được đặt câu hỏi với ông tổng trưởng y tế, ông tổng trưởng giáo dục, v.v. Thì khi đó hãnh diện lắm bởi vì mình mới có 19, 20 tuổi mà đã như vậy rồi đấy. Đó là cái niềm hãnh diện đầu tiên. Và những bài báo mà tôi viết thì tôi thấy có sao thì nói như vậy. Nhưng mà tôi gặp ông tổng biên tập của tôi ông hơi khó tính. Ông ấy bảo là mình là tờ báo đối lập, thành ra mày không được viết như vậy. Mày cứ viết khen chính phủ thì đâu có được. Đó, thành ra tôi cứ nhớ mãi như vậy. Và tôi bảo bây giờ nếu ông bảo là viết không khen chính phủ, tôi không biết viết như thế nào. Bởi vì khi mà mình đi họp báo thì mấy ông họp báo là người của chính phủ. Thật ra không phải ngợi khen chính phủ, mà mình cứ theo lời các ông ấy để viết bài báo. Vậy là ông tổng biên tập của tôi ổng la hoài. Ông bảo là mày viết báo giống báo nhà nước, chứ không phải là báo đối lập gì cả. Thì đó cũng là một cái kỷ niệm rất là vui."
"Năm đó tôi học lớp ba thì ở Nha Trang có một cái rạp tên là rạp Tân Tân, chiếu phim Ngư Ông Và Biển Cả. Cả một trường cả một trường tiểu học, trường Nam Nha Trang, học trò lũ lượt đứng xếp hàng từ buổi sáng để đến xem. Nhưng mà xem thì thật tình là sau này đọc truyện mình mới thấy là nó có một cái triết lý ở trong đó. Chứ còn lúc đó mới có 7, 8 tuổi không biết triết lý gì cả. Thành ra là khi mà tôi rời rời khỏi rạp, khi coi hết cuốn phim, tôi chỉ biết có một điều là con con cá nó rất ư là to. Và cuối cùng thì con cá đó nó bị ăn thịt. Nó chỉ có một cái bộ xương cũng rất là khổng lồ. Chỉ biết như vậy thôi, chứ không biết được triết lý nhân sinh quan ở trong cái cuốn phim Ngư ông và biển cả. Không biết là ông Hemingway ông viết cái đó là vì mục đích gì. Thật ra tôi chỉ nhớ ông già là ngư ông, rồi ông câu được được con cá to. Chỉ nhớ là như vậy. Vào đến Sài Gòn thì có những sự kiện đáng chú ý. Tôi vào đến Sài Gòn là năm 1962, thì đến năm 1963 ông Diệm bị lật đổ. Ông Diệm bị lật đổ thì xin thưa tôi cũng không biết ông Diệm là ông nào cả. Đó, thành ra là nó không có quan trọng nhưng mà chỉ biết là lúc đó tôi thấy là đường sá vắng tanh sau cái cuộc cách mạng. Rồi khi mà tôi lớn lên, đang học trung học thì có biến cố Tết Mậu Thân 1968. Và lúc đó tất cả học sinh phải tham gia vào những chương trình như là chương trình cứu trợ nạn nhân, những người không may bị cháy nhà cửa hay chết chóc, bị thương trong trận Tết Mậu Thân 1968. Và tôi nghĩ rằng là đó là bước đầu tiên mà tôi bắt đầu làm hoạt động xã hội."
Nguyễn Văn Khanh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1952 tại Hà Nội. Gia đình ông di cư vào Nam, trước tiên đến Nha Trang, rồi sau đó vào Sài Gòn để trốn khỏi chế độ cộng sản miền Bắc. Sau khi Sài Gòn thất thủ, họ đi vượt biên, sống qua các trại tị nạn ở Philippines, Guam rồi đến California. Gia đình ông được hai nhà thờ Công giáo tại Chicago bảo trợ. Ông bắt đầu học tiếng Anh, đi làm, và hòa nhập với cuộc sống Mỹ. Ông nhận học bổng học đại học George Mason tại Washington D.C. Khi mới đặt chân đến Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt Nam tại đây vẫn còn thưa thớt. Ông đã tham gia vận động chính phủ Mỹ giúp đỡ người tị nạn Việt Nam, với kết quả là sự ra đời của Chương trình H.O.. Ông tiếp tục con đường báo chí dang dở khi còn ở Việt Nam, bắt đầu công tác tại VOA, và sau đó trở thành một trong những người sáng lập ban Việt ngữ của Đài Á châu Tự do. Với kinh nghiệm dày dặn trong việc làm báo và hoạt động xã hội, ông tin rằng thế hệ trẻ chính là nền móng giúp Việt Nam trở nên tự do và dân chủ trong tương lai.
Hrdinové 20. století odcházejí. Nesmíme zapomenout. Dokumentujeme a vyprávíme jejich příběhy. Záleží vám na odkazu minulých generací, na občanských postojích, demokracii a vzdělávání? Pomozte nám!