Následující text není historickou studií. Jedná se o převyprávění pamětníkových životních osudů na základě jeho vzpomínek zaznamenaných v rozhovoru. Vyprávění zpracovali externí spolupracovníci Paměti národa. V některých případech jsou při zpracování medailonu využity materiály zpřístupněné Archivem bezpečnostních složek (ABS), Státními okresními archivy (SOA), Národním archivem (NA), či jinými institucemi. Užíváme je pouze jako doplněk pamětníkova svědectví. Citované strany svazků jsou uloženy v sekci Dodatečné materiály.

Pokud máte k textu připomínky nebo jej chcete doplnit, kontaktujte prosím šéfredaktora Paměti národa. (michal.smid@ustrcr.cz)

Penelope Faulkner (Ỷ Lan) (* 1950)

Tôi là Penelope Faulkner, hay còn gọi là Ỷ Lan. Tôi là một nhà hoạt động nhân quyền người Anh thương mến tiếng Việt và người Việt Nam

  • Penelope Faulkner sinh ra và lớn lên ở cố đô York, Anh Quốc, trong một gia đình trí thức giàu lòng nhân ái và ý thức công lý xã hội.

  • Sau khi gặp nhà hoạt động Võ Văn Ái tại York, do muốn giúp lên tiếng cho Việt Nam dưới bối cảnh chiến tranh, cô quyết định sang làm việc tại văn phòng của ông Ái, đồng thời học ngôn ngữ và văn học Việt Nam tại Paris năm 1970.

  • Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cô bắt đầu tham gia vào Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam và tạp chí Quê Mẹ dưới sự sáng lập của Võ Văn Ái nhằm bảo vệ nhân quyền, dân chủ và gìn giữ văn hóa Việt Nam.

  • Bắt đầu từ năm 1978 tới những năm thập niên 1980, tại trụ sở Quê Mẹ ở Gennevillers, cô tham gia điều phối chiến dịch nhân đạo con tàu Đảo Ánh Sáng “Île de Lumière”, vận động quốc tế cứu giúp hàng nghìn thuyền nhân Việt Nam vượt biển tìm tự do.

  • Vào năm 1985, cô và Võ Văn Ái cùng Ủy ban Quyền Làm Người Việt Nam kiện Hà Nội lên Liên Hiệp Quốc tại New York với 500 trang hồ sơ về tình trạng 8,000 tù nhân trong trại cải tạo, các vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo, tín ngưỡng lúc bấy giờ.

  • Từ năm 1989, cô góp sức cùng Ủy ban Quyền Làm Người Việt Nam và Võ Văn Ái trở thành đại diện tiếng nói nhân quyền Việt Nam tại Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH), trao quyền cho tiếng nói người Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc.

  • Từ năm 2023 đến nay, sau khi ông Võ Văn Ái qua đời, cô Ỷ Lan giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam và Giám đốc Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam, tiếp tục kiên định với lý tưởng tự do, dân chủ và nhân phẩm cho người Việt Nam.

Lưu ý: Văn bản tiếng Việt sẽ được trình bày sau văn bản tiếng Anh.

Penelope Faulkner, also known by her Vietnamese name Ỷ Lan, was born and raised in the city of York, England, in an intellectual family with compassion and a strong sense of social justice. In 1970, after meeting the Vietnamese activist Võ Văn Ái and wishing to contribute her voice to Vietnam amid the war, she moved to Paris, where she worked in his office while studying Vietnamese language and literature. She participated in the Vietnam Committee on Human Rights (1975) and the magazine Quê Mẹ (1976) since their founding to defend human rights, democracy, religious freedom, and preserving the Vietnamese culture. Through the Vietnamese language, the key to understanding the Vietnamese soul, Penelope Faulkner assisted Vietnamese people to speak for themselves on international human rights platforms. She envisions a compassionate Vietnam, free from prejudice and governed by laws that serve the people rather than suppress them.

Turning Point 1975: From Defending Culture to Defending Human Rights in Vietnam

After meeting activist Võ Văn Ái in York and being inspired by the desire to do something meaningful for Vietnam, Penelope Faulkner came to Paris in 1970, when the Vietnam War was still raging. A year later, Võ Văn Ái told her: “If you want to help Vietnam, the first thing you must do is learn Vietnamese.” This marked the turning point of her life. Learning Vietnamese was the key to unlocking the Vietnamese soul, literature, and the deep aspirations of a people torn by war and division. During those years, she was both learning Vietnamese and learning journalism and printing. At first, she handled technical work because she could not yet write fluently, but in the spirit of “one word makes a teacher, half a word makes a teacher” (nhất tự vi sư, bán tự vi sư), she quickly learned from Vietnamese colleagues from all regions, working together to preserve their language, literature, and national spirit.

After the fall of Saigon in 1975, sorrow spread through the Vietnamese community in Paris. Following April 30, 1975, Võ Văn Ái founded the Vietnam Committee on Human Rights. At that moment, both he and Penelope Faulkner realized that to defend Vietnamese culture, they must also defend the human rights of Vietnamese people themselves.

The Late 1970s: Eastern European Separatist Movements and the Île de Lumière Boat Campaign

In the years following 1975, as Vietnam had just been reunified, the world no longer wanted to hear the words “Vietnam.” Western governments were weary of the war, and many Europeans sympathized with the Communist side. In that climate, speaking up about reeducation camps, repression, and human rights violations in Vietnam was extremely difficult. Fortunately, Paris at the time was also the hub of Eastern European separatist movements from the Soviet Union, Poland, and Czechoslovakia. Activists like Vladimir Bukovsky, Natalya Gorbanevskaya, Paul Goma, and Leonid Plyushch, who understood the true nature of totalitarian regimes, became close friends of the Vietnamese movement, often attending press conferences organized by the Vietnam Committee on Human Rights to raise awareness in France. Despite facing hostility from local Communist authorities in Gennevilliers, the Quê Mẹ printing house became a shared space for printing dissident materials from Eastern Europe, united by the same ideals of freedom and human dignity. During this time, Quê Mẹ was not only a platform for voices from Vietnam but also from all those who loved liberty around the world.

When the Vietnamese boat people crisis erupted in the late 1970s, with thousands dying at sea, Penelope and Võ Văn Ái’s friends gathered to find ways to help the Vietnamese people. On a November night in 1978, Quê Mẹ and friends, which includes leading French intellectuals such as André Glucksmann and Jean-Paul Sartre, created the humanitarian boat campaign Île de Lumière (Island of Light). The rescue ship saved countless Vietnamese people at sea, bringing them to safety and bearing witness to the truth about postwar Vietnam. The Quê Mẹ office in Gennevilliers became a center of donations, raising millions of francs from people in France and beyond. The Île de Lumière mission not only saved lives but also transformed global perceptions of Vietnam. Many in the West who had once idealized a “liberated Vietnam” came to understand the reality of oppression and suffering.

Bringing Vietnam’s Human Rights Struggle to the International Stage (Mid–Late 1980s)

After the success of Île de Lumière, Quê Mẹ and the Vietnam Committee on Human Rights entered a new phase: bringing the Vietnamese human rights cause before the international community. In 1985, as Hanoi celebrated “Ten Years of Liberation,” Võ Văn Ái and Penelope Faulkner launched their boldest campaign since 1975 with the aim to bring the Vietnamese government before the United Nations. They submitted a 500-page report containing maps of 800 reeducation camps, lists of 800,000 detainees, and detailed evidence of repression against writers, artists, and religious figures. At Freedom House in New York, they held a major press conference featuring witnesses from both North and South Vietnam. The case drew international attention, making headlines in the Wall Street Journal, New York Times, and beyond, sending a shockwave to Western audiences who believed Vietnam had found peace. Behind the so-called liberation, they revealed a hidden reality of widespread human rights violations and repression. While some in the Vietnamese diaspora in the U.S. preferred violent resistance, dismissing the case as “an ant challenging a boulder,” Penelope Faulkner believed otherwise, through her human rights awareness, she thought the legal challenge would be better than starting another war.

In 1989, Quê Mẹ established ties with the International Federation for Human Rights (FIDH), the oldest human rights organization in France. Moved by the Vietnamese struggle, FIDH invited the Vietnam Committee on Human Rights to become a member, appointing Võ Văn Ái as Vice President of its Asia section, officially giving them a voice at the United Nations on human rights issues in Vietnam. Throughout the 1990s, religious freedom became a key focus of Quê Mẹ’s international advocacy. A landmark moment came in 1988, when Quê Mẹ helped overturn the death sentences of Venerable Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, and former MP Trần Văn Lương. Thanks to urgent appeals to the Swedish government, and direct intervention by the Swedish Foreign Minister, their death sentences were commuted just days before execution, saving three lives and marking a historic victory for the Vietnamese human rights movement.

----------------------------------------------------------------

Penelope Faulkner, hay Ỷ Lan, sinh ra và lớn lên tại cố đô York, Anh Quốc, trong một gia đình trí thức giàu lòng nhân ái và ý thức công lý xã hội. Năm 1970, sau khi gặp nhà hoạt động Võ Văn Ái và mong muốn góp phần lên tiếng cho Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh, cô sang Paris làm việc tại văn phòng của ông, đồng thời theo học ngôn ngữ và văn học Việt Nam. Cô tham gia Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam (1975) và tạp chí Quê Mẹ (1976) từ khi sáng lập nhằm bảo vệ nhân quyền, dân chủ, quyền tự do tôn giáo và gìn giữ văn hóa Việt Nam. Nhờ có tiếng Việt để mở khóa tâm hồn người Việt Nam, cô giúp người Việt có tiếng nói của chính họ trên các diễn đàn nhân quyền toàn cầu. Cô luôn tâm niệm về một Việt Nam ân tình, không kỳ thị, nơi luật pháp phục vụ con người thay vì đàn áp. Hiện nay, với vai trò Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam kiêm Giám đốc Quê Mẹ, cô vẫn kiên định với lý tưởng tự do, dân chủ và nhân phẩm cho người Việt Nam.

Bước ngoặt 1975: Từ bảo vệ văn hóa tới bảo vệ nhân quyền Việt Nam

Sau khi Penelope Faulkner gặp nhà hoạt động Võ Văn Ái tại cố đô York, Anh Quốc và được thôi thúc bởi lý tưởng muốn làm điều gì đó cho Việt Nam, cô đến Paris năm 1970, khi chiến tranh Việt Nam vẫn đang tiếp diễn. Một năm sau, ông Ái nói rằng: “Muốn giúp Việt Nam thì trước hết phải học tiếng Việt.” Câu nói ấy đã trở thành bước ngoặt trong cuộc đời cô. Việc học tiếng Việt không chỉ là học một ngôn ngữ, mà là chiếc chìa khóa để hiểu tâm hồn người Việt Nam, văn chương Việt Nam và những khát vọng sâu xa của dân tộc đang chịu cảnh chiến tranh và chia cắt. Lúc ấy, cô vừa học tiếng Việt vừa học làm báo, ban đầu phụ trách kỹ thuật vì chưa viết thành thạo, nhưng nhờ môi trường “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy), cô nhanh chóng học được từ người Việt mọi miền khi cùng chung tay giữ gìn ngôn ngữ, văn học và tinh thần dân tộc.

Những năm sau đó, khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975, nỗi buồn lan khắp cộng đồng người Việt tại Paris. Từ sau ngày 30/4/1975, Võ Văn Ái thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam. Lúc đó ông Ái, Penelope Faulkner và nhóm bạn ở Paris hiểu rằng muốn bảo vệ văn hóa Việt Nam, phải bảo vệ cả quyền con người của người Việt Nam.

Thập niên 1970: phong trào ly khai tại Đông Âu và con tàu Đảo Ánh Sáng

Những năm sau 1975, khi đất nước Việt Nam vừa thống nhất, thế giới khi ấy không còn muốn nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Các chính phủ phương Tây đã mệt mỏi sau chiến tranh, nhiều người Âu Châu lại có cảm tình với phía Cộng sản. Trong hoàn cảnh đó, việc lên tiếng về những trại cải tạo, về đàn áp và vi phạm nhân quyền ở Việt Nam là vô cùng khó khăn. May mắn thay, Paris lúc ấy lại là trung tâm của các phong trào ly khai Đông Âu, từ Liên Xô, cô Lan, đến Tiệp Khắc. Những nhà hoạt động như Vladimir Bukovski, Natalya Gorbanevskaya, Paul Goma hay Leonid Plyush hiểu rõ bản chất của các chế độ toàn trị, nên họ trở thành những người bạn của phong trào Việt Nam, liên tục tới các buổi họp báo mà Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam tổ chức để khuấy động dư luận Pháp. Dù gặp hiểm nguy từ chính quyền cộng sản của thành phố Gennevillers, nhà in Quê Mẹ trở thành nơi in ấn cho nhiều phong trào ly khai Đông Âu, chia sẻ cùng nhau lý tưởng tự do và nhân quyền. Tờ báo Quê Mẹ khi đó không chỉ nói về Việt Nam, mà còn là tiếng nói chung của những người yêu tự do muôn nơi.

Khi làn sóng thuyền nhân Việt Nam bùng lên cuối thập niên 1970, vô số mạng người hi sinh trên biển cả, những người bạn của Võ Văn Ái và Penelope Faulkner đã tụ họp lại để bàn về cách giúp người Việt Nam. Tối tháng 11 năm 1978, Quê Mẹ cùng các bạn giới tinh hoa người Pháp, bao gồm những người nổi tiếng như André Glucksmann và Jean-Paul Sartre, đã khởi xướng chiến dịch “Île de Lumière” (con tàu Đảo Ánh Sáng). Con tàu nhân đạo đã cứu vô số người Việt vượt biển, đưa họ đến nơi an toàn và làm chứng cho thế giới thấy sự thật về Việt Nam sau chiến tranh. Văn phòng Quê Mẹ ở Gennevilliers từ đó trở thành trung tâm quyên góp của hàng triệu franc được người dân Pháp và mọi miền thế giới gửi tới. “Île de Lumière” không chỉ cứu người, mà còn thay đổi nhận thức của thế giới về Việt Nam. Nhiều người phương Tây từng tin vào hình ảnh một Việt Nam giải phóng sau đó hiểu ra sự thật về đàn áp và khổ đau.

Vận động nhân quyền cho Việt Nam trên chính trường quốc tế từ nửa sau của thập niên 1980

Sau thành công của chiến dịch Île de Lumière, Quê Mẹ và Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam bước sang một giai đoạn mới nhằm đưa tiếng nói nhân quyền Việt Nam ra trước cộng đồng quốc tế. Năm 1985, khi Hà Nội rầm rộ kỷ niệm “10 năm giải phóng miền Nam”, Võ Văn Ái và Penelope Faulkner tổ chức chiến dịch lớn nhất kể từ sau năm 1975: đưa Hà Nội ra tòa Liên Hiệp Quốc. Một hồ sơ dày hơn 500 trang chứa bản đồ gần 800 trại cải tạo, danh sách 800.000 người bị giam giữ, cùng các chứng cứ về đàn áp văn nghệ sĩ, tôn giáo và tự do ngôn luận. Tại New York, Võ Văn Ái và Penelope Faulkner tổ chức họp báo tại Freedom House, có nhân chứng từ cả miền Bắc và miền Nam lên tiếng trước báo chí quốc tế. Vụ kiện gây chấn động dư luận Mỹ và phương Tây, đánh động Quốc hội và báo chí Hoa Kỳ như tờ Wall Street Journal, New York Times, vân vân. Giữa thời điểm thế giới tưởng Việt Nam đã yên bình, Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam đã phơi bày một sự thật khác rằng đằng sau 10 năm giải phóng là hàng loạt vi phạm nhân quyền và đàn áp tự do. Cho dù cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ khi đó muốn trả thù bằng vũ lực, cho rằng vụ kiện Hà Nội là “con kiến kiện củ khoai”, với niềm tin vào nhân quyền, Penelope Faulkner tin rằng khi người Việt Nam trong nước vẫn còn đang khổ đau, con kiến đi kiện củ khoai còn là giết người trong một chiến tranh thứ hai nữa.

Năm 1989, bước ngoặt đến khi Quê Mẹ kết nối với Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH), tổ chức nhân quyền lâu đời nhất nước Pháp. Sau khi được cảm động bởi câu chuyện Việt Nam, FIDH mời Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam làm thành viên, và Võ Văn Ái làm Phó Chủ tịch, Ủy ban châu Á, chính thức được phát biểu tại Liên Hợp Quốc về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. Trong suốt những năm 1990, tự do tôn giáo trở thành một trọng tâm trong vận động quốc tế của Quê Mẹ. Một ví dụ nổi bật là chiến dịch xóa bỏ án tử hình năm 1988 cho hai vị tăng sĩ Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu và cựu dân biểu Trần Văn Lương. Quê Mẹ đã vận động khẩn cấp tới chính phủ Thụy Điển. Nhờ sự can thiệp của ngoại trưởng Thụy Điển, án tử hình đã được hủy bỏ, cứu sống ba mạng người trong vài ngày ngắn ngủi.

INTRO

Người Anh, sinh tại Pháp, hoạt động vì người Việt Nam. Chỉ định học ở Paris 1 năm nhưng tới thì gặp Võ Văn Ái về Phật Tử Việt Nam Hải Ngoại, tình nguyện làm thư ký trong vòng 1 năm. Tới Paris gặp người Việt Nam nghe tiếng Việt, biết về văn hóa Việt Nam thì mê Việt Nam. Không muốn trở lại. Sau 1 năm, ở lại Pháp vì quyết định hoạt động cho Việt Nam. Sau 30/4/1975, thành lập Ủy Ban Quyền Làm Người Việt Nam để đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam quốc tế, ra báo Quê Mẹ 1976 để phổ biến trong nước âm thầm, đấu tranh cho cộng đồng người Việt hải ngoại. Vấn đề văn hóa quan trọng nên phải giữ văn hóa, tiếng nói của người Việt Nam. Luôn luôn muốn Việt Nam là một đất nước hạnh phúc. Chiến tranh là đau khổ bao nhiêu năm, chết chóc rất là khổ. Vậy nên tôi muốn Việt Nam có một thể chế tự do, đa đảng, dân chủ, có nhân quyền, có pháp quyền và có môi trường lành mạnh. Quote cá cần nước sạch, người cần minh bạch. Vừa có nhân quyền vừa có môi trường lành mạnh. Chính vì vậy đó là mơ ước đầu tiên, ban đầu khi mà tới đây mấy chục năm, cũng vẫn là ước mơ bây giờ, mấy chục năm sau.

CHILDHOOD & PARENTS

Lớn lên tại York, cố đô của nước Anh. Vì vậy nên thích nói giọng Huế bởi vì Huế là cố đô của nước Việt. Nước Anh bình yên, cha dạy học, mẹ dấn thân vào chuyện xã hội, có anh lớn hơn 2 tuổi. Rất thương nhau, rất vui. Cha mẹ có lý tưởng về xã hội, bị ảnh hưởng như vậy, thấy người bị bất công thì tôi lên tiếng. Hồi 13 tuổi ở Anh, gần sinh nhật của mình thì thấy truyền hình bên Anh, nhà sư Việt Nam tự thiêu. Hồi nhỏ không hiểu nhưng hình ảnh đánh mạnh vào tri thức và trái tim của mình. Lúc đó nghe hai chữ Việt Nam thì không biết năm ở đâu trên địa cầu nhưng hình ảnh nhà sư Quảng Đức tự thiêu. Rồi dần 14, 15 thì chiến tranh Việt Nam xuất hiện hàng ngày trên truyền hình. Khi nào có biểu tình Việt Nam thì tới nghe. Mẹ trong hội đồng thành phố của York thì họp xong về bức xúc, mẹ ở trong đảng Lao Động, thuộc cánh tả. Hình ảnh nhớ nhất là hình ảnh thầy Quảng Đức. Cha mẹ khuyến khích đời sống có thể giúp người khác.

THE MEETING THAT LED TO PARIS

Võ Văn Ái đi một vòng thế giới để nói về Việt Nam khi chiến tranh Việt Nam đang xảy ra. Lúc đó báo chí phân hóa, có người theo Mỹ, có người theo miền Bắc, Võ Văn ÁI đi để nói tình hình Việt Nam không đen trắng như vậy, cũng có nhiều người có ý kiến khác không ai nghe tiếng nói của người Việt Nam, người ta chỉ nghe báo cảnh tả, cánh hữu nói nhưng thực sự người Việt Nam nói gì thì không ai nghe hết. Thấy mới vì báo chí không nói như vậy. Võ Văn ÁI nói người Việt Nam muốn tự quyết định đất nước, tương lai của mình, không phải tại Moscow, Tokyo, Bắc Kinh, etc.

Mà tôi thấy người Việt họ hay tin chuyện vô hình, có duyên may, hay là có duyên, hay là số phận sắp đặt hay sao đó. Thì thật ra sau đó tôi cũng phải tin như vậy là bởi vì có nhiều lý do tối đó tôi không nên đi nghe ông Võ Văn ÁI thuyết trình. Bởi vì sáng mai tôi phải đi thi. Mẹ nói phải ngủ sớm, không được đi lang thang ngoài đường đi nghe thuyết trình. Nhưng mà không biết vì sao tôi quyết tâm đi nghe. Và thường thường đi nghe ai thuyết trình thì mình nghe rồi mình đi về nhưng anh Ái thuyết trình xong tôi thấy hay quá, tôi đến tôi hỏi: “Như vậy tôi muốn về Việt Nam làm cái gì?” mà ông nói “Cô mà về Việt Nam, cô không biết gì về Việt Nam, thì thật ra cô có về Việt Nam thì cũng không có thay đổi thế giới đâu”. Nhưng mà anh nói là có cái văn phòng ở Pháp thì nếu mà muốn thì có thể tình nguyện làm việc không tiền lương trong vòng một năm để làm thư ký. Ở bên Anh hay có cái chuyện sau trung học, trước khi vào đại học, thì mình làm việc một năm ở chỗ khác. Thì tôi hẹn với ông Ái là tôi sẽ qua Pháp một năm để làm việc trong cơ sở, để làm thư ký. Mà công nhận ông Võ Văn ÁI là một người rất dễ thương là vì khi tôi tới đó là câu hỏi đầu tiên của anh Ái là “Cô có biết đánh máy chứ hả”. Tôi không biết đánh máy, không biết đánh máy, không biết gì hết. Đúng là mình điếc không sợ súng vì mình làm thư ký mà không biết đánh máy. Nhưng mà anh Ái rất là kiên nhẫn, thành ra là dần dà tôi cũng giúp được một năm. Nhưng mà như nói hồi đầu, lúc đó chưa có cơ sở Quê Mẹ, lúc đó sau một năm tôi quyết định là tôi không muốn về.

Cái khổ là đối với cha mẹ thì cha mẹ thích mình con gái mình phải bác sĩ, kỹ sư hay là cái gì mà có tương lai, có tiền lương. Mà mẹ tôi thì thích ở Paris thì làm việc cho Việt Nam nhưng mà tương lai không biết ra sao. May là lúc đó tôi có học bổng học ở bên Anh. Tôi thuyết phục hội đồng thành phố để chuyển học bổng bên Anh qua Paris ở Đại Học Sorbonne để tôi có thể học Master về tiếng Việt và văn chương Việt Nam. Đó là một âm mưu đối với cha mẹ là bởi vì để tôi muốn ở lại Pháp, tôi muốn làm việc cho người Việt. Như vậy thì cha mẹ vừa vui, và tôi cũng có thể tiếp tục làm công việc tôi muốn, là ở lại Paris.

BEFORE PARIS AND ARRIVAL TO PARIS

1969, Paris arrival 1970, Việt Nam vẫn chiến tranh, văn phòng anh Ái lên tiếng cho Việt Nam dưới bối cảnh chiến tranh. Tôi vì lý tưởng muốn làm gì nhưng không biết làm sao. Sau một năm, Võ Văn Ái nói muốn giúp người Việt thì cái quan trọng nhất là phải học tiếng Việt. Đối với tôi học tiếng Việt là chuyện thay đổi cả đời sống, cả tương lai, tất cả. Tiếng Việt Nam như là chiếc chìa khóa để mở tâm hồn người Việt. Càng học tiếng Việt thì tình hình Việt Nam thay đổi, chiến tranh chấm dứt, thấy nhu cầu bảo vệ tiếng nói, văn hóa, nền văn chương, văn học Việt bắt đầu quý. Đấu tranh cho nhân quyền trở thành quan trọng, vì dưới chế độ đàn áp nhân quyền thì làm sao các nhà văn họ có thể có tự do nói, viết lách. Điểm quyết định đối với tôi là điểm học tiếng Việt.

CHANGES WHEN STARTING TO LEARN VIETNAMESE

Lập tờ báo Quê Mẹ 1976, quyết định do một số nhà trí thức Việt Nam ở Paris để quyết định ra một tờ báo. Sinh hoạt tại tờ báo Quê Mẹ vì khi đó ở văn phòng có đủ người mọi miền. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư, ai dạy cho mình một chữ hay nửa chữ cũng là thầy của mình hết á. Lúc đó vừa học tiếng Việt vừa học làm báo. Ban đầu làm kỹ thuật vì chưa biết viết tiếng Việt.

MEMORY IN PARIS 1975

Không khí rất âu lo. Paris là nơi đặc biệt vì người Việt tới nơi nhiều thời gian khác nhau. Có người sang du học rồi muốn trở lại Việt Nam để giúp đất nước, hoặc là lính thợ. Các đảng chính trị hoạt động cũng mạnh. Một năm ở Paris có hai cái Tết, một Tết của sinh viên quốc gia và một Tết của Cộng Sản, thành ra sinh hoạt đa dạng. Trong nhà anh Ái thì không có gì ngoài một vài cái ghế và chiếu để nằm ngủ vì người Việt muốn về Việt Nam để xây dựng một đất nước hạnh phúc. Nhưng mà 30/4 anh dẫn vợ và con đi mua tủ và giường. Đáng ra vui nhưng mà nhận thức phải sống lưu vong hết sức là đau khổ. Nhiều người Việt lúc đó tôi nghĩ cũng vậy. Khi nghe đài phát thanh, quân đội Bắc Việt đi và dần thì rất là buồn, không biết tương lai thế nào, ở Paris lúc đó rất âu lo, rất căng thẳng.

APRIL 30, 1975

Đã học tiếng Việt, chưa có tờ báo Quê Mẹ, nhưng bác Võ Văn Ái đã mua được nhà in để có nguồn sống cho nhóm. Nhóm bao gồm tôi, nhà văn Việt Nam sống chung như đại gia đình, hoạt động về văn hóa, in sách, làm báo. Học làm thợ in khó khăn nhưng có lý tưởng. In thơ cho Vũ Hoàng Chương, Quốc Thanh, Quách Tấn, etc. để gửi về trong nước. Rất vui, rất lý tưởng. Khi 30/4 tới, có người nói “giải phóng”, có người nói “cưỡng chiếm” Miền Nam. Những gì tốt đẹp về văn hóa thì lúc đó bị đe dọa tại Việt Nam. Vì chế độ độc tài không cho tự do tư tưởng, tự do sáng tác. Cũng nguy hiểm cho ở các con cháu Việt Nam sống xa quê hương vì tiếng nói cần phải được bảo tồn qua các thế hệ.

Thành ra tới ngày 30/4 nhóm chúng tôi ý thức được là để bảo vệ nền văn hóa Việt Nam cũng phải dấn thân vào chuyện làm nhân quyền, là một bước mới để bước sang hoạt động nhân quyền, dân chủ Việt Nam.

SUPPORT FROM THE SEPARATIST MOVEMENT 1975-77

Lúc đó rất khó vì không ai có kinh nghiệm hoạt động quốc tế nên không biết phải làm sao. Chỉ có Võ Văn Ái đã hoạt động từ lâu thì phải liên lạc quốc hội Hoa Kỳ, Âu Châu, Liên Hiệp Quốc, các thể chế quốc tế để vận động. Rất khó vì các nước sau 1975 không muốn nhắc tới hai chữ “Việt Nam”. Mỹ bỏ miền Nam trong hoàn cảnh như vậy thì hiệp ước hòa bình không bảo vệ được ai hết. Rất nhiều người Âu Châu có cảm tình với Bắc Việt, phía Cộng Sản. Rất khó khăn để có được tin tức từ bên trong như trại cải tạo, đàn áp, bao nhiêu chuyện. Rất may thời đó Paris (1975-1977), lúc đó Paris là trung tâm của các phong trào ly khai (Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, etc.). Có nhiều người rất nổi tiếng, Vladimir Bukovski, Natalya Gorbanevskaya, các nước họ hiểu về Cộng Sản Việt Nam nên họ trở thành bạn của mình. Nhà in trở thành nhà in của tất cả các phong trào ly khai của các nước Đông Âu ở Paris vì chúng tôi chỉ tính phí rẻ thôi, trả tiền giấy, tiền in thôi, không làm tiền. Khi Gorbachev tới Paris, chúng tôi in cho tất cả các nước như Tiệp Khắc, Ba Lan. Khi in như vậy, mình giúp họ in về chuyện tranh đấu. Khi họp báo về Việt Nam, không ai tới hết. Nhưng do có rất nhiều người nổi tiếng Ba Lan, Liên Xô này kia đến như nhà toán học Leonid Plyush người Ukraine. Họ đến họp báo với mình. Nhờ sự có mặt của họ nên may ra có sự chú ý tới Việt Nam. Hoạt động đó là những năm sau 1975 thì nhờ phong trào ly khai họ giúp mình rất là nhiều. 

Vui là thùng rác của nhà in QM nằm ở thành phố Gennevilliers, thành phố cộng sản Pháp nắm quyền. Họ thấy những thùng rác của mình đầy những chuyện tranh đấu, ly khai, đủ thứ. Hai lần rất là nguy hiểm. Một, họ gửi người để đốt nhà in của mình. Hôm đó làm việc tới khuya, thấy xe đổ đầy rác trước nhà mình nên dọn qua nhà bên cạnh. Tối hôm sau đi họp với các nhóm ly khai ở Paris thì xe chữa cháy đầy con đường. Trên đường lúc đó có hai nhà in đối diện nhau. Giấy tờ dơ dáy như vậy là dấu hiệu để đốt. Cảnh sát nói với mình là họ định đốt nhà mình vì mình tranh đấu. Khi Gorbachev qua Paris thì hai tuần điện thoại của QM bị cắt. Họ nói rằng không biết sao có vấn đề kỹ thuật gì đó. Khi Gorbachev về nước thì tự nhiên có một ông tới để sửa gì đó thì có điện thoại trở lại. Mình ở Paris mà phong trào cũng bị kiểm duyệt luôn. Nhiều khó khăn lắm.

Những nhà hoạt động ly khai Đông Âu, Tiệp Khắc, Ba Lan, Liên Xô sang Paris tị nạn để họ giúp những người trong nước họ. Do Võ Văn Ái có tiếng là một nhà hoạt động nên họ quen nhau. Kinh nghiệm của họ rất hay. Tôi nhớ anh Paul Goma, người Romania, anh viết vào trong báo Quê Mẹ, anh nói cả người quét đường ở Romania cũng biết cộng sản ở Việt Nam sẽ làm hại cho đất nước Việt Nam. Anh ấy nói chúng tôi là những người đau xương vì khi cộng sản tới là họ biết trong cái xương, cái tủy của họ. Mình học được rất nhiều của họ và họ cũng rất thương Việt Nam. Mình áp dụng những kinh nghiệm của họ cho đấu tranh cho Việt Nam.

ILE DE LUMIERE BOAT FOR VIETNAM

Sau 1975, chúng tôi muốn tìm kế hoạch vừa giúp cho Việt Nam và vừa có thể giải thích cho cộng đồng thế giới sự thật. Ngôn ngữ hận thù không thuyết phục được người Tây phương, nên thành ra phải tìm ra các sự thật để nói, dùng ngôn ngữ nhân quyền. Sự dấn thân của anh Ái quan trọng do anh là Phật tử nên chọn cách bất bạo động. Nhưng khi thấy phong trào người bỏ nước ra đi, cao trào năm 1978-1979, sau khi thấy sau hòa bình không chung sống được Bắc-Nam, bị đàn áp, Hà Nội họ mở ra trại cải tạo, họ nói là không phải tù nhưng vào đó có thể ở hai tuần, có thể ở mười năm. Do không xử án nên không biết vào đó thì lúc nào mà ra, tùy theo công an họ quyết định. Lúc đó đàn áp rất dữ dội nhưng không có báo chí quốc tế để nhân chứng. Chúng tôi thấy rất đông người Việt Nam tìm cách vượt biển, bỏ nước ra đi để tìm tự do, tương lai cho con cái họ.

(0:40:06) Có một hôm, 1978, tôi nhớ là ngồi với một số người Pháp, phần lớn là khuynh tả hết. Những người họ cũng ủng hộ hòa bình cho Việt Nam họ cũng có cộng sản nữa, nhưng mà họ bắt đầu thấy. Thì mình giải thích cho họ. Vì sao? Bởi vì họ nói ủa Việt Nam hòa bình rồi tại sao mà người ta bỏ nước ra đi như vậy mà người ta chết trên biển. Lúc có con tàu tên Hải Hùng là một con tàu rất lớn mà người ta trả tiền để mà lên, để mà thoát nước, mà con tàu lại bị chìm, rất nhiều người chết. Mình đang nói chuyện với những người bạn Pháp, nhà trí thức Pháp, thì có ông tên là André Glucksmann. Ông nói như vậy mình phải làm gì cho Việt Nam, phải làm gì bây giờ? Nói chuyện với nhau thì có người muốn biểu tình, đặt lá cờ trên nóc nhà của đại sứ Việt Nam ở Paris. Cái đó không có giúp người Việt trong nước gì hết. Thì bàn đi, nghĩ lại thì quyết định góp tiền để làm một con tàu để vớt những người họ bỏ nước ra đi. Mình làm một con tàu lớn để cứu họ để đem họ vào đất lành và từ từ giúp cho họ đi nước này nước nọ để định hướng. Chính cái đó, là tháng 11 năm 1978 thì quyết định như vậy. Thì có một số người Pháp, trong đó có ông triết gia rất nổi tiếng Jean-Paul Sartre, một người rất ủng hộ Hà Nội trước đó, ông đến với ủy ban con tàu. Ông nói là bây giờ phải cứu người, bây giờ người ta chết trên biển, vấn đề cứu người là bổn phận của những người theo thế này thế kia. Ông Jean-Paul Sartre là tên tuổi rất lớn. Ủy ban ra đời làm Île de Lumière, tức là… Nó sinh ra từ một sáng kiến của một số người nhỏ như vậy và trở thành một cái gì rất lớn. Trụ sở Quê Mẹ Gennevilliers trở thành trung tâm, địa chỉ trung tâm của con tàu là ở đó. Lúc đó rất là hay bởi tất cả các người bạn Pháp, họ là người tri thức, viết văn, nổi tiếng, họ quen biết giới báo chí ở Paris hết thì họ thuyết phục tất cả các tờ báo lớn ở Paris họ đăng một quảng cáo để xin tiền làm con tàu. Họ in trong tờ báo không có lấy tiền gì hết. Thành ra nhờ đó, rất nhiều tiền vô, người Pháp họ cho tiền rất là nhiều để cứu người Việt Nam. (0:43:21) Thành ra ủy ban của mình thu được một số tiền rất là lớn dù không ai biết những người bạn Pháp, chả biết gì về con tàu, chả biết làm sao, cụ thể mình không biết. Nhưng chiến dịch con tàu rất thu hút dư luận bên Pháp.

Nhiều người khuýnh tả không có nhiều cảm tình với miền Nam. Nhà báo tới từ Hà Lan phỏng vấn Võ Văn Ái tại sao làm con tàu để cứu người tham nhũng. Nếu có người rớt xuống kênh thì có hỏi người Bắc hay người Nam không? Từ đó ở Hà Lan gần giáng sinh thì họ cho cả triệu cho làm tàu cứu Việt Nam.

Lúc đó có thuyền nhưng phải thuê, ai muốn thuê thì phải qua trung tâm, thuộc nghiệp đoàn cộng sản Pháp. Khi họ biết muốn thuê tàu để cứu người trốn khỏi Việt Nam thì họ không cho. Tiền vô rất là nhiều nhưng mình không có tàu. Dư luận bắt đầu nói là đây là con tàu ma, làm tiền. Độc giả Quê Mẹ ở Nouméa nói chồng tôi có con tàu lớn tên là Ile de Lumiere thì nếu muốn thuê, tôi sẽ thuyết phục chồng tôi mà không cần qua nghiệp đoàn. Cũng nhờ độc giả Quê Mẹ thì có con tàu, sau đó thuê thủy thủy, etc. đã cứu được cả nghìn người. Có nhiều chiến dịch thuyết phục ở các nước khác như Ý, tổng cộng 7 con tàu ở các nước khác đi. Ở Mã Lai một tiếng là có 55 người tới. Vớt người xong thì đưa đi đâu, lúc đó cũng có chống người nhập cư. Cũng hay là con tàu có lá cờ Pháp cứu ai thì người đó có quyền sống ở nước Pháp nhờ luật quốc tế. Có lúc Mã Lai và các nước ở Đông Nam Á sợ vì đông người quá. Có lúc họ đập bể tàu và họ đuổi đi, nhờ mình mà nhiều người không chết trên biển. Cũng may là những người tới nơi thì không phải là thiếu tá tham nhũng mà là những người rất bình thường, giáo viên, nông dân, tổ chức lên truyền hình Pháp để kể tại sao họ ra đi. Họ kể với báo chí những chuyện không ai biết hết và cuộc sống thường ngày. Ví dụ như câu chuyện chồng tôi là nhà văn nhưng phải đi trại cải tạo 10 năm đi thăm nuôi chồng, nuôi con. Thế giới thấy như vậy thì bắt đầu thay đổi cái nhìn. Lúc đó 25% bỏ phiếu cho cộng sản Pháp, mà sau phong trào con tàu của mình là chỉ còn 2-3%. Nhờ phong trào con tàu mà vừa cứu người, vừa thay đổi cái nhìn của thế giới về Việt Nam.

Muốn đi trên con tàu lắm để đi cùng, truyền hình Anh cũng rất muốn tôi lên tàu để đi truyền hình. Nhưng mà truyền hình Pháp thì họ thích người Pháp đi hơn. Mình không đi được nên mình làm đủ các chuyện khác để giúp. Văn phòng Quê Mẹ làm trụ sở cho con tàu, rất nhiều thư, tiền được gửi tới. Mỗi ngày có những bao thư to. Không khí vui. Khó khăn là khi làm con tàu nên không lo cho nhà in được, khách nhà in không điện được cho Quê Mẹ do họ muốn đặt hàng mà không được. Nhà in phá sản, con tàu nổi nhưng nhà in thì chìm. Một năm không ra được vì không có tiền để in báo, không có tiền lương cho nhân viên. Đấu tranh cũng có nhiều vui vẻ nhưng nhiều khó khăn.

Văn phòng có giúp phần nào để người Việt biển ở lại Pháp, người Pháp giúp nhiều hơn. Còn mình vận động giúp nhân quyền Việt Nam nhiều hơn Lúc đó rất là ít ngủ. Cái tình của người Việt rất là cảm động. Họ trải qua bao nhiêu khó khăn, ám ảnh mà tới bây giờ không quên được. Chuyện vượt biển không phải để tìm tiền lương tốt hơn mà họ ra đi trong hoàn cảnh hết sức đau thương.

TAKING HANOI TO THE UN COURT

Có khởi đầu của chiến dịch nhưng không có kết thúc. Sau đó có những nước khác họ làm tàu vớt. Công việc cứu họ và đưa họ lên truyền hình tiếp tục nhiều năm sau đó. Quê Mẹ lúc đó cũng phải có hoạt động khác. Lúc đó thì chuyện chinh phục thế giới là chuyện rất quan trọng. (1:00:13) Có một chiến dịch khá quan trọng là lúc 1985, là 10 năm Hà Nội ăn mừng giải phóng miền Nam, họ ăn mừng lớn lắm. Lúc đó, Quê Mẹ và Ủy Ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam quyết định phải nói về tình trạng vi phạm nhân quyền rất là trầm trọng, đặc biệt với nước Mỹ. Có quy chế Liên Hợp Quốc bằng vụ kiện, xã hội dân sự có thể nộp đơn chứng minh tình trạng quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, vân vân, bị vi phạm ở Việt Nam. Mình làm hồ sơ 500 trang toàn những chuyện tôn giáo, bắt bớ văn nghệ sĩ, cho danh sách những người bị bắt bớ, vẽ bản đồ các trại cải tạo ở Việt Nam mà có 800.000 người bị giam. Lúc đó chúng tôi nộp đơn kiện cho văn phòng nhân quyền của Liên Hợp Quốc ở New York. Lúc đó Quê Mẹ qua New York để kiện Hà Nội. Lúc đó Wall Street Journal, báo chí, quốc hội Hoa Kỳ chú ý về vụ kiện. Lúc đó Hà Nội tức lắm vì đang ăn mừng. Mình hợp báo ở Freedom House, cũng nổi tiếng ở New York, mình có nhân chứng từ miền Bắc nói về chế độ nhà tù ở Bắc Việt, một người bác dĩ miền Nam Việt Nam nói về đời sống ở miền Nam. Chuyện kiện Hà Nội ở New York cũng đánh động thế giới. Lúc đó mình cảm thấy ngôn ngữ nhân quyền và sử dụng thể chế nhân quyền quan trọng. Lúc đó người Việt tại Mỹ muốn kháng chiến, phục quốc ngày kia, đánh đổ cộng sản bằng vũ lực nhưng mình rằng đất nước đã đau khổ, thế giới không ủng hộ rồi thì thực ra mình thấy nhân quyền quan trọng hơn. Họ nói mình kiện lên Liên Hợp Quốc như vậy là “con kiến mà kiện củ khoai”. Thì cũng được, kiện củ khoai còn hơn là giết chết người ta trong chiến tranh thứ hai nữa. Đó là ý thức nhân quyền của thời đó. (01:04:21)

Khó lấy thông tin lắm hồi 1985. Khó thuyết phục thế giới, chưa có điện thoại, chưa có internet. Đối với thế giới phải có chuyện thật, không thể lý thuyết về đời sống người Việt trong nước. Thời đó chỉ có fax, cũng nhanh chóng nhưng rất nguy hiểm. Chế độ Hà Nội kiểm duyệt rất chặt. Mình muốn có tin tức nhưng muốn bảo vệ người trong nước. Thời 1984, ở Huế có cuộc biểu tình lớn, có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đức Tăng Thống qua đời, Hà Nội muốn lợi dụng tang lễ để nói là cộng sản tôn thờ phật giáo trong khi đó giáo hội bị đàn áp rất nhiều. Lúc đó quý thầy ở Huế phản đối rất nhiều, không muốn có tang lễ cùng huy chương, phật tử phải làm tang lễ theo truyền thống đạo Phật. 40 ngàn người xuống đường để phản đối. Quê Mẹ cũng muốn có tin tức về cuộc buổi tình. Có người phật tử có tin tức về biểu tình, vào bưu điện Huế, đáng lẽ là chế độ kiểm duyệt không cho nhưng do có người phật tử ở bưu điện có cảm tình nên họ cho fax qua. Lúc đó họ nói mực chưa khô ở cuộc biểu tình ở Huế mà ông Võ Văn Ái đã loan tin ở Paris cho thế giới. Khổ là sau đó chính quyền biết là có người gửi fax ở Huế tới Paris, về sau biết là mọi người bị mất một tháng lương vì không ai chịu khai hết. Vụ kiện 500 trang như vậy là toàn những tin tức từ các vụ biểu tình tôn giáo, văn nghệ sĩ, vân vân, để chứng minh đời sống lúc đó khó khăn như thế nào. Lúc đó thế giới chấn động vì họ chưa hề biết về những chuyện đó.

BEFORE MEETING IFDH

Kiện Hà Nội là 1985, sau đó Quê Mẹ có nhiều chiến dịch khác nhau. Muốn chuyển tin vào Việt Nam như tin Liên Hợp Quốc, nhân quyền cũng khó. Quê Mẹ làm chiến dịch Truyền Lửa Về Quê Nhà. Lúc đó độc giả thấy gì hay thì khi họ gửi thư về cho bà con thì Quê Mẹ gửi rất nhiều về cho bưu điện, đồn cảnh sát ở Việt Nam. Nhiều tới nỗi quân đội nhân dân Việt Nam họ thông báo họ đã tịch thu không biết mấy trăn tấn báo từ nước ngoài. Sau đó mình cũng biết công an đi bán Quê Mẹ ở chợ đen. Người Việt trong nước họ biết được chuyện ở nước ngoài có vận động cho họ nhờ vậy. Khi làm báo Quê Mẹ phải học nói và viết tiếng Việt. Mình không phải nhà văn nhưng thích viết lách nên nhờ anh Ái khuyến khích nên mình nói về đời sống người không phải Việt Nam nhưng học tiếng Việt, trật dấu, xưng hô, v.v Sau đó đài BBC đặt mình lên sóng đài BBC. Lúc đó Việt Nam lúc đó khép kín, không có báo chí nước ngoài thành ra người trong nước họ nghe đài BBC rất nhiều, lúc đó chưa có đài Á Châu Tự Do. Trong khi lúc đó tôi viết những chuyện vui thì mình cũng muốn gửi luôn thông điệp là người Việt hải ngoại và người ngoại quốc đang nghĩ tới người Việt Nam để họ không phải cô đơn, vẫn có phong trào lo cho họ. Nhưng đài BBC không cho mình làm chính trị, chỉ văn chương, nhưng mà phải tìm cách, ví dụ kể về việc mình tới Geneva gặp bạn bè. Nhờ có thầy giỏi dạy mình tiếng Việt nên mình nói lái, đài BBC không hiểu nhưng người trong nước họ hiểu hết. Ví dụ chuyện tham nhũng nói muốn làm gì ở Việt Nam cũng phải đi theo thủ tục “đầu tiên”, người trong nước họ hiểu “đầu tiên” là “tiền đâu”, họ hiểu những gì mình muốn nói. Rất cảm động là một thời gian sau mình nhận thư từ Việt Nam. Thời đó do kiểm duyệt của Hà Nội nên con tem gửi đi nước ngoài thì bằng nửa giá tiền lương. Có một anh gửi thư rằng anh mất hai cái chân trong chiến tranh Việt Nam nên khi anh ngồi trên vỉa hè sửa xe đạp, anh nghe lén đài bên cạnh nên anh cảm động, anh tiết kiệm một năm dù là thương phế binh để gửi một lá thư để nói rằng chuyện cô kể trên đài giúp người trong nước lên tinh thần vì họ biết rằng nước ngoài cũng có người lo cho họ, để không bị cô đơn. Tôi cũng được khuyến khích là vì vừa làm cho Quê Mẹ, vừa làm chuyện cá nhân, nên thấy rất đặc biệt.

FAMILY REACTION TO ACTIVISM WORK

Hay là bốn người trong gia đình thương nhau. Khi quyết định ở lại Paris thì gia đình buồn nhưng khi làm con tàu thì cha mẹ mới thấy người Việt bỏ nước ra đi thật là bi thảm, khổ đau. Chính cha mẹ cũng nói là phải làm một cái gì. Cha mẹ cũng lập ủy ban ở York để kêu gọi người Anh góp tiền, có một ông dân biểu Anh cũng kêu gọi góp tiền cho Việt Nam. Ba má cũng giúp người Việt Nam định cư ở bên Anh. Chính mẹ lúc đó làm thẩm phán cũng giúp người Việt Nam tìm nhà, đi mua tủ lạnh, lo giường ghế cho người Việt Nam. Chính cha mẹ cũng vui vẻ giúp người Việt Nam. Nhưng mà mẹ có nói là khó khăn là mấy bà bạn của mẹ hỏi con gái của bà làm gì thì bà không biết nhân quyền có phải là một nghề không? Nhưng mà công nhận cha mẹ rất vui vẻ nên là coi như đoàn tụ gia đình. 

FIDH & ADVOCACY WITH THE UNITED NATIONS

Gặp gỡ với Fédération internationale pour les droits humains (FIDH) or the International Federation for Human Rights quan trọng vì chúng tôi biết diễn đàn Liên Hợp Quốc quan trọng. Phải là tổ chức đã ghi danh lâu đời, ủy ban của mình nhỏ bé, họ đòi hỏi rất nhiều để được vận động trong Liên Hợp Quốc. Mình tình cờ gặp Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền, phần lớn là luật sư, tổ chức lâu đời nhất của nước Pháp. Hình như những năm 30 họ gửi án vận động vì Phan Bội Châu bị án tử hình. Khi mình gặp họ thì mình kể chuyện thì họ cảm động. Họ mời mình làm thành viên của ban Châu Á (1989) và anh Ái làm phó chủ tịch của tổ chức, 200 năm nước Pháp tuyên ngôn quyền làm người. Sau đó tổ chức được chính thức phát biểu trong Liên Hợp Quốc, rất quan trọng vì tất cả các chính quyền đều ngồi nghe và mình cũng gặp các phái đoàn chính phủ riêng. Người trong nước cần có tiếng nói và mình có thể giúp họ nói trong diễn đàn lớn như Liên Hợp Quốc. Ai bị bắt thì có thể kêu gọi cộng đồng quốc tế trả tự do cho họ. Mỗi năm phát biểu tại Liên Hợp Quốc hai lần. Anh Ái làm được việc đó tới khi anh qua đời cách đây hai năm là 2023. Sau đó tôi làm việc này hằng năm. Phát biểu trong Liên Hợp Quốc oai nhưng mà không ai trả tiền cho mình nên chúng tôi lái xe từ Pháp qua Thụy Sĩ và phải thuê khách sạn phía bên Pháp để rẻ hơn. Hoặc cộng đồng người Việt ở Geneva cũng mời mình ở nhà của họ. Có cái hay cũng có cái khó khăn.

Khó khăn là Hà Nội không muốn cho mình nói nên họ làm nhiều việc, hoặc là thuyết phục các cơ chế để không cho mình phát biểu hoặc họ dọa, áp lực. Mình thì không sợ vì mình sống ở Pháp nhưng mà họ có áp lực dọa những người được vô Liên Hợp Quốc phát biểu. Phải thức đêm nhiều lắm, dịch các tài liệu sang tiếng Anh, Pháp, Việt mặc dù tổ chức nhỏ. Khó khăn sinh sống, làm sao tiếp tục vì không ai tài trợ cho mình hết á.

INTL HUMAN RIGHTS ADVOCACY IMPACT

Kết quả cũng khó nói vì mình đã vận động mấy chục năm rồi nhưng mà Việt Nam vẫn là nước độc tài, không có nhân quyền, không có tự do. Trước khi trở thành thành viên FIDH, có 03 người Việt Nam bị xử án tử hình, hai nhà tu sĩ phật giáo thầy Thượng tọa Tuệ Sỹ và Thượng tọa Trí Siêu, cựu dân biểu Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Lương. Hai thầy rất nổi tiếng, được Ân Xá Quốc Tế bảo trợ, họ không làm gì hết mà bị bắt và xét tử hình. Quê Mẹ mua báo trong nước của Hà Nội, mua qua trung gian. Họ dùng tục danh của thầy, tức Lê Mạnh Thát và Phạm Văn Thương, tên mà ít ai biết, để loan tin sắp ra pháp trường. Làm chiến dịch xóa bỏ án tử hình cho hai người. Lúc đó là 1988, rất ít nước liên hệ ngoại giao với Việt Nam, có một nước có liên hệ ngoại giao chặt chẽ là Thụy Điển do đấu tranh hòa bình. Tôi bay liền qua Stockholm để gặp thủ tướng, rất nhanh chóng vì có thể ba ngày tới là các thầy bị bắn xử tử. Cũng may ngoại trưởng Thụy Điển đang ở ĐNÁ, ông bay qua Việt Nam, lúc đó có Nguyễn Văn Linh tổng thư ký đảng cộng sản Việt Nam thì nhờ Thụy Điển là bạn của Hà Nội nên họ xóa bỏ án tử hình nhưng mà họ vẫn giam cầm hai thầy trong vòng 20 năm. Sau đó được thả ra sớm hơn nhờ áp lực quốc tế. Mình cho Ân Xá Quốc Tế biết là ba người là được cứu nhờ quý phong trào Quê Mẹ. Thì mình biết là mình đã cứu một số người trên biển cả và những người chỉ vì chính kiến mà có thể là bị bắn chết. Mình thấy công việc của mình có kết quả trong đời sống của người Việt Nam thì vui. Người trong tù cũng cho mình biết là đính danh họ ở tù nào, phòng nào thì họ nói rằng điều kiện giam giữ của họ đã giảm nhẹ hơn. Thì họ biết là quốc tế đang nhìn vào và biết được các điều kiện giam giữ người trong tù ở Việt Nam.

THE FIGHT FOR RELIGIOUS AND BELIEF FREEDOM

Ngài Đôn Hậu mất đi 1986, sau đó những năm 80, chính sách Việt Nam họ muốn xóa bỏ hết tất cả tôn giáo. Ở miền Nam các truyền thống tôn giáo đi sâu vào tâm linh con người, không xóa bỏ được. Hà Nội ban đầu muốn đàn áp và giam cầm các tu sĩ. Thầy Thiền Minh, giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1978 bị tra tấn đến chết trong trại cải tạo. Hà Nội không chấp nhận một giáo hội mà không theo họ. Chính sách Việt Nam thấy rằng không xóa và thanh toán được các tôn giáo thì họ lập tôn giáo của nhà nước. Năm 1982 họ lập Giáo Hội Việt Nam, lãnh đạo là dân biểu trong quốc hội. Thầy Huyền Quang và thầy Quảng Độ, lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lúc đó phản đối, Hà Nội liền gửi họ đi quản chế ở quê của họ. Sau đó tất cả các tôn giáo bị đàn áp dữ dội. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam bị nặng nhất vì vừa nói chuyện tôn giáo vừa nói chuyện nhân quyền, đối với Hà Nội họ không thể chấp nhận điều đó, các thầy bị đàn áp rất mạnh….

Anh Ái thời đó là phật tử hoạt động trước 1975, chưa có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhưng quen biết hết cả quý thầy. Khoảng năm 1990, các quý thầy sao đó mời anh Ái làm phát ngôn những chuyện xảy ra với giáo hội, làm việc chung với các tôn giáo bạn như Tin Lành, Công Giáo Hòa Hảo để có phong trào tự do tôn giáo tín ngưỡng. Sau đó Quê Mẹ đặc biệt làm về tự do tôn giáo.

Thời đó tôi được trực tiếp phát truyền hình trên BBC, hòa thượng Huyền Quang, đức Tăng Thống trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dù bị quản chế ở Quảng Ngãi nhưng vẫn nghe đài tôi kể chuyện, tôi hát hò tiếng Huế trên BBC. Thành ra ngài nghe và cảm động, nói cho mọi người xung quanh như vậy. Tôi thì không có tôn giáo dù Công Giáo và Tin Lành ở bên Anh là số đông. Tôi thấy đạo phật hay ở chỗ là đức Phật là một con người đi tìm sự thật chứ không phải đấng cao xa. Sau đó tôi gửi thư để quy y với thầy, gửi thư lắt léo để tới nơi thầy ở. Sáu tháng thư mới tới, sáu tháng sau thầy trả lời cho mình. Tức là một năm để hai lá thư qua lại. Thầy bị quản chế suốt đời nhưng không bao giờ khuất phục. Tôi học được rất nhiều từ thầy trong việc đấu tranh cho tự do tôn giáo. 

Quê Mẹ: JOURNALISM AND PRINTING WORK FROM 1976 AND MOVING TO PARIS IN 2000

Tờ báo phải đình bản năm 2000 là vì ở Gennevillers bị chính quyền cộng sản của thành phố đuổi ra, chỉ cho biết trước hai tháng mà Quê Mẹ còn có máy in, trên Paris thì khó mà tin được chỗ. Độc giả Quê Mẹ từ 1976-2000 cứu Quê Mẹ bao nhiêu tiền, mỗi lần kêu gọi thì đầu đóng góp. Có người ở Ý trả tiền báo bằng cà phê. Thầy Huyền Quang cũng góp 100 quan để mọi người biết Quê Mẹ có ý nghĩa với thầy như thế nào. Mỗi ngày tìm chỗ ở mới đều tuyệt vọng nhưng cuối cùng tìm được một nơi từng là pharmacy ở tầng hầm và bên trên là nhà ở, rất phù hợp. Dù mất nhà in nhưng sau đó có internet nên vẫn đấu tranh và làm văn học.

CHANGES AFTER LOSING THE PRINTER HOUSE

Thế hệ cũ nên hơi khó khăn, kiếm tin tức và liên lạc, có vấn đề thì biết ngay. Thời đại mới rất nhanh, gửi fax từng tờ một rất đau khổ. Nhưng giờ bấm nút là gửi đi hết trong mấy phút. Vận động quốc tế tốn rất nhiều thì giờ, nhiều cơ chế phải lo như là Universal Periodic Review, rất quan trọng. Mỗi lần thì chúng tôi phải làm phúc trình trong bốn năm qua. Mỗi nước phải gặp họ riêng và phải biết các vấn đề mà họ đặc biệt quan tâm. Nhờ có internet thì mới dám liên lạc người trong nước. Sau khi có internet có làm chương trình để làm các khóa học làm sao để vận động nhân quyền cho các em trong nước. Mình vận động trả tự do cho tù nhân lương tâm thì mình cũng liên lạc với người trong nước để lập danh sách.

DIFFICULTIES IN POLITICAL ACTIVISM

Khó khăn về truyền thông để liên lạc với người trong nước và đưa tin ra. Vấn đề an ninh để tránh bắt bớ người trong nước. Trong giới Việt Nam, trong nước hay ngoài nước, người Việt Nam hay không tin cậy nhau. Có nhiều tổ chức khác nhau, nhưng mình có thể tôn trọng các tổ chức khác. Không phải tất cả nhưng cũng khá phổ biến, xem nhau như kẻ cạnh tranh hay kẻ thù, không tin cậy nhau. Tôi vốn là người ngoại quốc, khi đi thuyết trình và vận động với anh Ái thì nên có sự kết hợp vận động với các tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài. Bốn triệu người Việt Nam ở nước ngoài là một lực lượng hết sức quan trọng nếu mình biết làm việc và đoàn kết với nhau. Họ đồng ý đoàn kết nhưng mà phải “đoàn kết sau lưng tôi” thì coi như là họ làm chủ thì ok. Đó là một cái rất là tiếc. Anh Ái và tôi cũng nghĩ thôi mình đừng có nói đoàn kết, kết hợp, mình chỉ nói đừng phá nhau để mỗi người làm việc riêng. Thời đó có một số người Việt nói tàu Ánh Sáng là tàu ma mặc dù con tàu đi cứu người thật. Tôi rất hy vọng là người trẻ không bị mắc phải chuyện đảng phái hay là phân hóa với nhau. Mình phải tôn trọng chính kiến, tôn trọng lẫn nhau. Rất là uổng cho sức của một phong trào đấu tranh.

DISRUPTION FROM THE VIETNAMESE INTELLIGENCE

Anh Ái là một người rất hiền hòa, một phật tử mà Hà Nội vẽ chân dung như một con quỷ rồi người phản động, phá hoại đất nước các thứ. Mình nhớ một lần FRP, hãng thông tấn của Pháp ở Hà Nội muốn gặp anh Võ Văn Ái, người mà nhắc tới tên là đập bàn, đỏ mặt. Có hai yếu tố mà Hà Nội không tha thứ, một là anh Ái được hậu thuẫn quốc tế, biết vận động quốc tế. Thứ hai là gần gũi lực lượng trong nước, những người thực sự đấu tranh trong nước. Mình đi đâu cũng bị Hà Nội tấn công đủ thứ. (00:32:28) Có một lần, 2011 hoặc 2012, lúc đó Việt Nam là chủ tịch các nước ASEAN, chúng tôi cùng cùng Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền. làm báo cáo nhân quyền dưới chủ tịch nước Việt Nam. Mình nghĩ là ASEAN, thì thay vì mình công bố tại một đất nước tây phương thì mình công bố ở một nước ASEAN, mình quyết định công bố phúc trình ở Băng Cốc, trong câu lạc bộ ký giả quốc tế ở Băng Cốc (Foreign Correspondents‘ Club of Thailand). Anh Ái vẫn là tị nạn chính trị nên cần visa của Thái Lan. Thái Lan cho visa nhưng mà giờ chót họ bỏ visa và họ nói ông không đi được. Hỏi tại sao thì họ không nói. Tôi là người Anh, tôi không cần visa để đi Băng Cốc, thành ra nên tôi cáng đáng sẽ đi ra mắt phúc trình cùng Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền. Tôi là người Anh, tôi có chiếu kháng passport của nữ hoàng nước Anh cho đàng hoàng. Tôi ra phi trường Paris, tôi lên máy bay thì hãng máy bay hỏi: Có phải là cô Faulkner? “Đúng, đúng, đúng”. Họ nói xin lỗi, cô không thể lên máy bay được. “Ủa, tại sao vậy?”. Hãng Thái Lan, họ nói rằng hình như cô làm nhân quyền phải không. Tôi có chứ. Theo tôi thì nhân quyền thì đâu phải là một cái tội. Tại sao? Có vấn đề gì? Bộ Ngoại Giao Việt Nam cho biết rằng nếu mà cô lên máy bay này thì chúng tôi không thể đáp xuống ở Băng Cốc được. Thành ra đối với tôi là một ghê gớm ở chỗ, tôi không phải ở tù, nhưng mà Hà Nội có tay dài tới nỗi có thể cấm một người không phải quốc tịch Việt Nam, không đi Việt Nam, tôi đi Thái Lan, tôi không đi Việt Nam đâu… Và họ có thể cấm được. Thành ra tôi biết, người Việt Nam hoạt động xã hội dân sự tại Việt Nam họ rất là can đảm. Bởi vì họ có một thái độ như vậy, họ sẽ ở tù. Có một cái nữa phải rằng báo chí, đài BCC, các nước họ không nhắc cái chuyện đó. Tôi thấy chuyện Hà Nội cấm một người như vậy là cái chuyện nặng nề chứ không phải là chuyện dễ đâu. Thành ra vì vậy, tôi thấy là đi đâu Hà Nội họ cũng cho chúng tôi là kẻ thù. Nhưng mà tôi tiếc ở chỗ tôi không xem Hà Nội như kẻ thù. Nhưng mà họ xem mình là kẻ thù tức là công việc mình làm thành công một phần. Nếu không họ sẽ xem nhẹ và họ không để ý gì hết á. (00:35:56)

THE DREAM TO COME TO VIETNAM AND OTHER THREATS

Có mấy lần cũng bị phá, bị gửi DDOS. May là không bị xóa các tài liệu. Có nhiều người bị bắt nên mình phải chuyển domain. Anh Ái và thầy Quảng Độ luôn luôn nói chuyện bằng điện thoại, họ biết là người thứ ba đang nghe. Có lần có một báo cáo viên tự do tôn giáo của Liên Hợp Quốc, Abdelfattah Amor đi một chuyến về Việt Nam năm 1998 thì phải. Có lần gọi điện nhắc tới Võ Văn Ái thì Hà Nội biết. Sau đó ông bị dọa “Ông đừng tưởng ông là báo cáo viên Liên Hợp Quốc mà ông sẽ không bị gì lôi thôi trong đất nước này”. Chưa bao giờ từng tới Việt Nam vì hoạt động nên tên tuổi cũng biết. Hi vọng về sau có thể được tới vì lúc đó chính quyền sẽ cởi mở hơn nhưng mà anh Ái nói rằng không nên, nhỡ sẽ bị “tai nạn xe hơi” hay gì đó. Tiếc là tôi làm cho Việt Nam mấy chục năm rồi, có triệu người bạn, nhưng tôi không đến thăm được. 

2020 UNTIL NOW

Từ 2020 tới nay cách hoạt động không hề thay đổi, từ lý tưởng cho tới hoạt động với Liên Hợp Quốc. Chỉ có lớn tuổi hơn trước và sức khỏe không bằng. Hồi trước đi rất nhiều, thuyết trình ở cộng đồng Việt Nam và các cơ quan quốc tế. Không thể làm hết được. Anh Ái cũng muốn viết nhiều hơn, nên bỏ bớt việc đi các nước nhiều, không cần phải di chuyển nhiều. Tôi muốn số hóa các báo Quê Mẹ từ 1976 tới năm 2000 để đưa lên trên website, hi vọng sẽ xong trong năm nay và dịch mục lục ba thứ tiếng để các người trẻ nghiên cứu về sau, để nhìn người đi trước và được gợi hứng từ người đi trước.

EFFECTS OF A MEMBER PASSING

Anh Ái qua đời vào tháng Giêng năm 2023, bị bệnh trái tim, thi sĩ hay bị bệnh tim vì họ yêu nhiều. Anh Ái là một người hướng dẫn rất là lý tưởng, một người rất bình tĩnh, mọi khó khăn đều có thể giải quyết. Thành ra khi không còn anh ở đó, có những chuyện mình không biết giải quyết làm sao. Sự ra đi của anh đối với tôi là một mất mát rất lớn, anh Ái là một người thật là đặc biệt với tôi và với Việt Nam. Từ khi còn nhỏ anh chống Pháp, bị ở tù hồi 11 tuổi và bị tra tấn. Rất là tội nghiệp. Anh tranh đấu cộng sản khi học ở Pháp rồi viết lách đủ thứ. Thành ra anh có vốn sống đặc biệt và khác lạ lắm. Anh bị bệnh tim nhẹ thôi, không có gì, đang tính làm gì cho Ukraine. Anh muốn viết một bài cho Ukraine buổi tối, thì sáng hôm sau nhà thương điện là anh đã ra đi. Anh đang viết hồi ký nửa chừng chưa xong, anh đã viết xong cuốn sách về Phật giáo thì chưa in được. Thành ra bây giờ tôi đang góp lại các chuyện hồi ký để xuất bản. Thành ra đó là kế hoạch vừa làm nhân quyền vừa làm số hóa các tài liệu. Tôi không phải là người Việt nên tôi phải học tập nhiều. Có lẽ anh Ái khi ra đi cũng để lại một tinh thần bất khuất nên tôi có thể học theo, khi có một ngọn đuốc sáng trước mặt.

Ở Paris anh Ái có nói trước là không muốn tổ chức đám tang, không thích nước mắt cá sấu, nhưng làm tang lễ trong gia đình thôi. Tôi nhận được các thông điệp chia buồn từ các châu lục trong thế giới không chỉ bạn mà còn người trẻ. Khi anh ra đi thì tôi rất ngạc nghiện và khám phá ra cả một vốn tình thương rất là cảm động.

REFLECTION OF THE CHOICE TO COME AND STAY IN PARIS

Không qua Paris và không làm việc với anh Ái thì tôi không biết là cuộc đời có ý nghĩa như thế nào. Ít nhất là, đối với tôi đó là niềm vui, có thể đóng góp phần nào cho đất nước Việt Nam. Đó là mơ ước đầu tiên của tôi. Tôi biết được là, nhờ tôi là người ngoại quốc, mà cái nhìn của người ngoại quốc nó giúp cho phong trào Việt Nam cũng có cái nhìn khác. Khi tôi học tiếng Việt, một trong những lí do tôi muốn học tiếng Việt là trong thời chiến tranh Việt Nam, khi báo đài phỏng vấn thì hỏi người Tây phương mà không hỏi người Việt Nam. Khi tôi học tiếng Việt thì ví dụ, đối với người Việt Nam mà không biết ngoại ngữ thì tôi giúp dịch cho người Việt Nam, tôi giúp họ có tiếng nói trong diễn đàn quốc tế. Vì chính người Việt Nam là người biết hơn ai hết. Tôi trong mình luôn tự dặn mình là tôi sẽ không trở thành một người chuyên môn tây phương để mình nói thay cho người Việt Nam. Qua những bài tôi phỏng vấn qua đài RFA, tôi nghĩ là tôi có giúp một phần nào cho những người Việt Nam, có những người Việt Nam rất là giỏi để họ có tiếng vang trên diễn đàn quốc tế.

Có thể là nếu ở lại đại học Anh, có thể trở thành cái gì, tiền lương nhiều hơn, cha mẹ vui hơn. Nhưng mà tôi đã và đang sống một cuộc đời rất là vui và tôi nghĩ là tôi giúp một phần người Việt Nam để họ cũng vui luôn. Thành ra tôi thấy cái đó đủ ý nghĩa cho một cuộc đời.

INTERNATIONAL PERCEPTION OF HUMAN RIGHTS IN VIETNAM 2025

Tình hình xấu hơn và khó khăn hơn khi đấu tranh. Vì các nước khác cần thị trường của Việt Nam. Trong nước cũng có ngoại giao cây tre. Người trẻ cần phải tìm cách mới bằng phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Các nhóm trẻ về môi trường cũng là một cách hoạt động mới, đa dạng. Người trẻ chắc chắn sẽ tìm cách và sẽ nhắn.

A LIVEABLE VIETNAM

Muốn đi ăn chè. Chè hột sen ở Huế. Tôi muốn nhiều chuyện lắm. Mơ ước một Việt Nam ân tình, thương nhau, không kỳ thị. Cần phải có một chính quyền nâng cao dân trí, đa chiều thông tin. Phải có một cuộc thay đổi chính trị, một đảng không thể nào cai trị hết được. Một đất nước pháp truyền chứ không phải pháp trị, dùng luật để ăn hiếp và đàn áp người dân như bây giờ. Lúc đó thì có thể đi ăn chè mà không phải lo gì hết.

MESSAGE TO THE YOUNGER VIETNAMESE CSO GENERATIONS

Kinh nghiệm không thể sử dụng hai lần. Có một số kinh nghiệm có thể truyền lời. Có thể thông điệp là phải tham gia, phải dám dấn thân. Nếu mình không làm và bảo vệ người bị đàm áp, im lặng để bảo vệ bản thân thì là mình đồng lõa. Tôi đến với Việt Nam với một trái tim và óc tò mò

FINAL REINTRODUCTION

Tôi tên là Penelope Faulkner, tên Việt Nam là Ỷ Lan. Ỷ Lan là người Thái Hậu đời Lý của người Việt Nam mà tôi rất là phục. Tôi sinh ra ở cố đô York ở bên Anh. Tức là tôi là người Anh. Tôi qua Pháp là năm 1970 để mà hoạt động cho Việt Nam. Trong vòng 1 năm, suốt mấy chục năm tôi vẫn ở lại tới bây giờ. Tôi đã hoạt động trong cơ sở và tờ báo Quê Mẹ. Hiện tại tôi là Chủ Tịch Ủy Ban Quyền Làm Người Việt Nam và cơ sở Quê Mẹ, hành động cho dân chủ Việt Nam. Tôi hoạt động cho nhân quyền, dân chủ, và tự do cho đất nước Việt Nam.

© Všechna práva vycházejí z práv projektu: Memory of Vietnamese Civil Society

  • Příbeh pamětníka v rámci projektu Memory of Vietnamese Civil Society (Ho Xuan Huong )